Nguy cơ ung thư gan cao ở bệnh nhân viêm gan B, C mãn tính

Nguy cơ ung thư gan cao ở bệnh nhân viêm gan B, C mãn tính

Theo thống kê y tế, khoảng 80% bệnh nhân ung thư gan có tiền sử nhiễm virus viêm gan B hoặc C. Đây được xem là hai nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh gan ác tính này. Tại Việt Nam, tỷ lệ người mang mầm bệnh viêm gan B khá phổ biến, ước tính 10-20% dân số. Còn viêm gan C cũng đang ngày càng gia tăng, đặc biệt ở những nhóm có nguy cơ cao như người nghiện chích ma túy, bệnh nhân lọc máu chu kỳ, gái mại dâm...

Nguyên nhân virus viêm gan dẫn đến ung thư gan

Cả virus viêm gan B và C đều có khả năng gây tổn thương gan, dẫn đến xơ hóa dần. Sau quá trình viêm nhiễm mãn tính kéo dài, gan bị thương tổn nặng và hình thành các khối u ác tính. 

Theo GS.TS Nguyễn Văn Kính, nguyên Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, viêm gan virus âm thầm tấn công, làm chết tế bào gan dẫn tới xơ hóa và biến đổi ác tính. Nhiều người bệnh chỉ phát hiện virus viêm gan khi bệnh đã ở giai đoạn muộn không thể điều trị khỏi.

Virus viêm gan B là nguyên nhân hàng đầu gây ra ung thư gan ở nước ta. Theo phân tích của các bác sĩ, 25% bệnh nhân mắc virus lâu năm sẽ có biến chứng thành xơ gan, ung thư gan nếu không được can thiệp kịp thời. Đặc biệt 100% ung thư gan ở trẻ em đều liên quan tới viêm gan B mãn tính.

Nguy cơ ung thư gan cao ở bệnh nhân viêm gan B, C mãn tính

Bệnh lây lan rất dễ dàng qua đường tiếp xúc với máu nhiễm bệnh. Phụ nữ mang thai khi bị nhiễm virus, nguy cơ truyền bệnh sang con là rất cao. Ngoài ra, quan hệ tình dục không an toàn cũng khiến lây lan virus viêm gan B, C cực kỳ dễ dàng.

Virus xâm nhập và nhân lên trong tế bào gan, gây tổn thương và viêm nhiễm kéo dài, dẫn đến xơ gan và ung thư gan nếu không được điều trị. Theo các nghiên cứu, tuổi nhiễm virus viêm gan B càng sớm, nguy cơ mắc bệnh mãn tính và ung thư gan sau này càng cao.

Trẻ em dưới 6 tuổi mắc viêm gan B thường rất khó khỏi hoàn toàn, 80-90% chuyển sang giai đoạn mãn tính. Trẻ sơ sinh nếu bị lây nhiễm từ mẹ, tỷ lệ viêm gan B mãn tính sau 1 năm là 80-90%. Nguy cơ tương tự cũng ghi nhận ở 30-50% trẻ em dưới 6 tuổi mắc bệnh.

Biến chứng viêm gan siêu vi C cũng đáng lo ngại không kém khi virus tấn công âm thầm và chậm tiến triển. Người bệnh chỉ hay biết bị nhiễm siêu vi C khi đã xuất hiện các biểu hiện của bệnh gan nặng. Lúc này việc điều trị virus vô cùng khó khăn, dễ để lại di chứng về sau.

Đề phòng viêm gan siêu vi dẫn đến ung thư gan

Hiện tại vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu với viêm gan virus A, E. Với viêm gan B và C có thể sử dụng các thuốc ức chế virus, ngăn ngừa diễn tiến nặng của bệnh. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ thực sự hiệu quả ở giai đoạn đầu của bệnh.

Khi bệnh đã chuyển sang giai đoạn mãn tính, xơ gan hoặc thậm chí ung thư gan, việc điều trị virus gần như vô vọng. Vì thế việc tầm soát, phát hiện sớm bệnh là vô cùng quan trọng. Những người có nguy cơ cao cần được khuyến khích đi xét nghiệm viêm gan định kỳ, ít nhất 6 tháng một lần.

Khi phát hiện nhiễm virus viêm gan B hay C, người bệnh cần được điều trị triệt để ngay lập tức. Thời gian virus tồn tại và nhân lên càng lâu thì càng có nhiều tế bào gan bị phá hủy. Do đó chỉ có tầm soát và điều trị sớm mới ngăn ngừa được nguy cơ ung thư gan do viêm gan virus gây ra.

Như vậy, viêm gan virus, đặc biệt là viêm gan B và C là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ung thư gan, chiếm tới 80% số ca mắc. Các virus này âm thầm phá hủy tế bào gan, gây viêm nhiễm mãn tính và dẫn đến xơ hóa. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, tổn thương sẽ tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào gan.

Do đó, việc tầm soát và điều trị sớm virus viêm gan là vô cùng quan trọng. Người dân cần nâng cao ý thức phòng tránh lây nhiễm virus từ người bệnh và quan hệ tình dục không an toàn. Đồng thời những người có nguy cơ cao cần được khuyến khích thăm khám định kỳ để phát hiện bệnh sớm. Chỉ có tầm soát, can thiệp kịp thời mới ngăn chặn được biến chứng nặng nề của bệnh như xơ gan và ung thư gan.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn